Thế hệ thứ hai của MiG-23 Mikoyan-Gurevich MiG-23

Flogger-G

MiG-23ML
  • MiG-23P: đây là một phiên bản chuyên không chiến đánh chặn được phát triển cho PVO Strany. Nó có khung và động cơ giống với MiG-23ML, nhưng bộ phận thăng bằng được làm ngắn bớt so với những phiên bản khác. Hệ thống điện tử đồng bộ được cải tiến nhằm đáp ứng những đòi hỏi của PVO và thực hiện nhiệm vụ. Rada là loại cải tiến Sapfir-23P, nó có thể sử dụng kết hợp với hệ thống súng tự động ngắm trên máy bay để có khả năng look-down/shoot-down tốt nhất trong các cuộc không chiến khi mà sự đe dọa ngày càng tăng từ các loại vũ khí bay thấp như các loại tên lửa hành trình hiện đại. Hệ thống IRST không được gắn vào phiên bản này. Hệ thống lái tự động bao gồm cả một loại máy tính điện tử mới, được kết nối với hệ thống truyền dữ liệu Lasur-M. Nó còn được nhận được thông tin từ những trạm điều khiển mặt đất để đánh chặn mục tiêu một cách nhanh nhất; mọi phi công có thể điều khiển dễ dàng động cơ và vũ khí. MiG-23P là máy bay đánh chặn với số lượng lớn phục vụ trong PVO những năm 1980. Khoảng 500 chiếc đã được sản xuất giữa những năm 1978-1981. MiG-23P không được xuất khẩu, và chỉ hoạt động trong biên chế của PVO.
  • MiG-23bis: nó giống với MiG-23P nhưng hệ thống IRST đã được sử dụng trên phiên bản này và màn hình hiện thị radar cồng kềnh đã được loại bỏ, vì mọi thông tin cung cấp được hiển thị trên màn hình trước mặt phi công(HUD).
  • MiG-23ML: đây là phiên bản Flogger đầu có ý định sử dụng tên lửa tấn công tốc độ cao. Phiên bản sản xuất đầu tiên có hiện tượng rạn nứt dưới giá đỡ vũ khí. Khả năng thao diễn của phiên bản này cũng bị chỉ trích. Kết quả lớn nhất từ loại MiG-23ML (L - trọng lượng nhẹ) là khung máy bay đã được hoàn thiện, và nó là cơ sở của những loại máy bay mới sau này. Trọng lượng rỗng của máy bay giảm xuống 1250 kg, vì bỏ bớt đi thùng nhiên liệu phụ trong thân máy bay. Bộ phận hạ cánh được thiết kế lại. Khung máy bay chịu được gia tốc trọng trường tối đa là 8.5 g, so với 8 g của phiên bản MiG-23M/MF 'Flogger-B'. Động cơ mới R-35F-300 cung cấp lực đẩy là 8550 kg và 13.000 kg với nhiên liệu phụ. Hệ thống điện tử cải tiến đã góp phần nâng cao hiệu suất của máy bay. Hệ thống tiêu chuẩn S-23ML gồm cả rada Sapfir-23ML và hệ thống TP-23ML IRST. Rada mới đáng tin cậy và nó có thể dò tìm mục tiêu trong phạm vi 65 km. Radio mới và hệ thống đường truyền dữ liệu mới được lắp đặt. Phiên bản này bay lần đầu vào năm 1976 và bắt đầu sản xuất năm 1978.
  • MiG-23MLA: đâu là biến thể được sản xuất sau của dòng "ML" được ký hiệu là "MLA". Về dáng vẻ bên ngoài thì MLA giống hệt ML. Bên trong, MLA được gắn hệ thống radar đối phó điện tử EMC, nó vừa có thể thăm dò mặt đất và gây nhiễu đối với rada của đối phương. Nó có hệ thống hiển thị ngắm bắn mới ASP-17ML HUD, và tên lửa cải tiến Vympel R-24R/T. Giữa những năm 1978-1982, khoảng 1100 chiếc ML/MLA đã được sản xuất cho không quân Xô viết và xuất khẩu. MiG-23MF nó có sự khác biệt với phiên bản MiG-23ML để xuất khẩu: MiG-23MF được xuất khẩu cho những nước trong khối hiệp ước Vác-xa-va, còn MiG-23ML sử dụng rada phiên bản cũ để xuất khẩu cho những nước đồng minh của Liên Xô thuộc thế giới thứ 3.

Flogger-K

MiG-23MLD
  • MiG-23MLD: MiG-23MLD là phiên bản tiêm kích cuối cùng của MiG-23. Điểm chính trong việc nâng cấp là cải thiện khả năng cơ động, linh hoạt, đặc biệt là khả năng tấn công với góc tấn lớn (AoA). Hệ thống lái được cải thiện tăng khả năng điều khiển và an toàn hơn trong tấn công với tốc độ cao. Sự cải tiến quan trọng nhất là hệ thống điện tử được lắp đặt trên máy bay: Sapfir-23MLA-II có những thay đổi vượt bậc trong phát hiện, bắn hạ và chiến đấu trong khoảng không hẹp. Radar cảnh báo từ xa SPO-15L, hệ thống gây nhiễu bằng các mảnh kim loại và bắn pháo hiệu được lắp đặt. Đặc biệt là loại tên lửa tầm ngắn mới và hiệu quả Vympel R-73 (NATO: AA-11 'Archer') đã được trang bị. Không có một chiếc "MLD" nào được cung cấp cho VVS, vì đã có loại máy bay hiện đại hơn là MiG-29 được bắt đầu sản xuất. Thay vì sản xuất loại MiG-23MLD, thì những chiếc ML/MLA đã được nâng cấp lên thành loại MLD. Khoảng 560 chiếc đã được nâng cấp giữa những năm 1982-1985. Cũng giống như những phiên bản ban đầu của MiG-23, 2 phiên bản xuất khẩu riêng đã được giới thiệu. Không giống như kiểu của Liên Xô, chúng là những máy bay được chế tạo mới, dù hình dáng khí động học không được cải tiến như những chiếc 'MLD' của Liên Xô; 16 chiếc đã được giao cho Bulgaria, và 50 chiếc cho Syria. Đây là những chiếc tiêm kích MiG-23 một chỗ cuối cùng được chế tạo và là mẫu cuối cùng được trước khi dây chuyền sản xuất đóng cửa vào tháng 12-1984.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mikoyan-Gurevich MiG-23 http://www.flightglobal.com/Articles/2005/04/05/Na... http://www.youtube.com/watch?v=5BtwZi883kc http://www.fas.org/nuke/guide/russia/airdef/mig-23... http://www.globalaircraft.org/planes/mig-23_flogge... http://www.globalsecurity.org/military/world/russi... http://www.africana.ru/konkurs/raboti/Brylevsky/An... http://www.airwar.ru/history/locwar/bv/mig23/mig23... http://www.airwar.ru/history/locwar/bv/migs/mig23.... http://commi.narod.ru/txt/2002/0801.htm http://urrib2000.narod.ru/EqMiG23-e.html